Bánh Chưng – Món Ăn, Vị Thuốc Quý

Bánh chưng không chỉ là biểu tượng văn hóa ẩm thực tâm linh của người dân Việt Nam, còn là món ăn ngon…

Bánh chưng không chỉ là biểu tượng văn hóa ẩm thực tâm linh của người dân Việt Nam, còn là món ăn ngon – vị thuốc quý tăng cường sức khỏe phòng trị bệnh hiệu quả. Nhân dịp đón xuân, chúng ta cùng tìm hiểu công năng tác dụng độc đáo của bánh chưng.

Bánh chưng được phối hợp tổng hòa nhiều mùi vị như thơm dẻo của gạo nếp, ngọt bùi của đậu xanh, vị béo ngậy của thịt mỡ và mùi thơm đặc trưng của tiêu, hành, lá dong. Đây là sự kết hợp tương đồng rất khoa học và sáng tạo phù hợp nhu cầu dinh dưỡng nhiều lứa tuổi.

Gạo nếp còn gọi “ngạnh mễ”: vị ngọt tính ấm, vào tỳ phế… tác dụng bổ trung ích khí, kiện tỳ dưỡng vị, ích phế, chỉ hãn… Trị chứng hư lao tiết tả, tỳ vị hư nhược, đau thượng vị, nhiều mồ hôi, vị hư tiết tả, váng đầu chóng mặt… Gạo nếp chứa chất bột (gluxit). Nếu thiếu chất bột khi ăn dễ bị tụt đường huyết, người mệt mỏi, chân tay bủn rủn, làm việc khó tập trung, bụng đói cồn cào… Tuy nhiên, không dùng nhiều với người đái tháo đường người đang cần giảm cân.

Bánh chưng

Bánh chưng không chỉ là biểu tượng tâm linh của người Việt, còn là món ăn ngon – vị thuốc quý phòng trị nhiều bệnh.

Thịt lợn còn gọi “trư nhục”: vị hơi ngọt, mặn, tính bình, ăn lành, tác dụng tư âm, nhuận da thịt, dưỡng khí huyết, ích ngũ tạng… Là nguồn cung cấp chất đạm (protein) không thể thiếu cho mọi lứa tuổi. Nếu trẻ em thiếu đạm sẽ chậm lớn, thấp bé nhẹ cân. Người lớn tuổi thiếu đạm hay bị mệt mỏi… Tuy nhiên, người bệnh gút không ăn nhiều thịt trong nhân bánh chưng.

Mỡ lợn còn gọi “trư chỉ”: vị ngọt, tính mát, không độc, có tác dụng hoạt huyết, nhuận phổi, giải độc, khu phong… Chữa chứng mất tiếng nói, trẻ em, thanh niên tóc khô, da mụn nám, gầy ốm yếu, chậm lớn… Mỡ lợn cung cấp chất béo (lipid) là chất không thể thiếu cho mọi lứa tuổi. Nếu bổ sung chất béo hợp lý giúp hình thành phát triển của hệ thần kinh, nội tiết tố, sinh dục… Chất béo còn giúp hòa tan hấp thu chuyển hóa các vitamin A, D, E, K cũng như duy trì mềm mại của làn da, mái tóc…

Đậu xanh còn gọi “lục đậu”: vị ngọt, tính mát, không độc. Tác dụng bổ tỳ, thanh nhiệt, sinh tân, trừ phiền, tiêu phù, hạ khí, ích ngũ tạng, sáng nắt, mịn da, giải tất cả các chất độc. Đậu xanh rất giàu protein, lipit, carbohydrat và các axit amin, các vitamin A, B1, B2, PP, B6… Rất thích hợp cho người suy nhược, người già, trẻ em khó lên cân, da khô sần ngứa gãi dùng rất tốt.

Hành còn gọi “thông bạch”: vị cay, tính ấm, không độc. Tác dụng giải biểu, thông dương, hòa trung, tiêu thực, sát trùng, lợi tiểu tiện, thông huyết ứ… Trị bụng đầy chậm tiêu, viêm nhiễm đường ruột, cảm cúm nhức mỏi, tiểu tiện bất lợi, phong thấp nhức mỏi, ngăn ngừa huyết ứ, kết vón tiểu cầu.

Hạt tiêu còn gọi “hồ tiêu”: vị cay ấm. Tác dụng ôn trung hạ khí tiêu đờm, kích thích tiêu hóa… Trị chứng bụng lạnh đau, thổ tả, ói mửa, bụng đầy chậm tiêu, trừ độc của thịt cá, nấm.

Muối: tác dụng tả hỏa, thanh tâm, lương huyết, nhuận táo, dẫn thuốc khác vào kinh thận. Muối natri cân bằng nước và điện giải điều hòa âm dương trong cơ thể… Khi thiếu muối, cơ bắp dễ bị chuột rút, hoa mắt, chóng mặt…

Lá dong: Tác dụng giải độc, thanh nhiệt. Lá dong giúp bảo quản bánh được lâu, có màu xanh, mùi thơm, khai vị kích thích tiêu hoá.

Tuy nhiên, bánh chưng giàu chất đường, chất đạm, chất béo nên người đái tháo đường, người đang cần giảm cân không nên ăn nhiều.

Lương y Phúc Min

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM